Nhìn lại cuộc đời đầy bi đát của vũ nữ Cẩm Nhung sau vụ тạт ᴀxιт ‘rúng động‘ Sài Thành
Cẩm Nhung – một vũ nữ nổi tiếng bậc nhất Sài Gòn nửa thế kỷ trước có lẽ đã không ngờ rằng cuộc đời cô lại nghiệt ngã đến vậy. Khi từ một “nữ hoàng vũ trường”, cô bị đánh ghen bằng 1 ca axit và trở nên mù lòa, biến dạng, phải đi ăn mày khắp Sài Gòn…
Sau 59 năm, nhiều thế hệ sau này không còn biết gì về người vũ nữ một thời vàng son lộng lẫy và ca axit định mệnh ngày ấy; tuy nhiên, với người dân thời đó, đây là vụ đánh ghen tàn bạo và rùng rợn nhất từng được ghi nhận tại thành phố này, gây chấn động cả Sài Gòn và miền Nam.
Báo chí thời điểm đó đánh giá đây là vụ đánh ghen bằng axit lần đầu tiên xảy ra trong giới thượng lưu Sài Gòn, là tâm điểm quan tâm của nhiều tầng lớp. Còn cuộc đời của Cẩm Nhung, nhân vật chính trong câu chuyện có thể viết thành tiểu thuyết mà hồi kết của nó đúng là 1 bi kịch. Gọi đây là 1 kiếp hồng nhan bạc mệnh cũng không sai.
Từ gái nghèo lên nữ hoàng vũ trường
Cẩm Nhung sinh năm 1940 tại Hà Nội, năm 15 tuổi, cô gia đình di cư vào Nam. Sau đó không lâu, chacô lâm bệnh rồi mất. Cẩm Nhung phải bỏ học, xin vào làm tiếp viên trong một nhà hàng. Nhờ đó cô đã lân la làm quen với những bản nhạc, những điệu nhảy trong quán bar của nhà hàng.
Với khuôn mặt đẹp và làn da trắng hồng, đôi mắt lẳng lơ, thân hình quyến rũ, khi tuổi chưa đầy 19 tuổi, cô đã trở thành gái nhảy chuyên nghiệp trong giai đoạn phong trào nhảy đầm phát triển rầm rộ ở Sài Gòn.
Cô đi qua nhiều vũ trường, cuối cùng dừng lại với vũ trường Kim Sơn trên đường Tự Do (nay là Đồng Khởi, quận 1). Sự vụt sáng của Cẩm Nhung khi đó đã làm lu mờ ngay vì tinh tú đã sáng mấy năm trước đó chính là Thu, con nhà văn Lê Văn Trương gốc Bắc, một vũ nữ được nhiều tay chơi Sài Gòn mến mộ.
Thu tâm sự rằng: “Con Cẩm Nhung có lợi thế hơn người, bởi nó vừa trẻ lại vừa đẹp và nhảy hay. Mặc dù về Kim Sơn chưa đầy một năm, vậy mà ticket (vé) của con nhỏ đã tăng lên vùn vụt”. Vũ trường Kim Sơn cũng là nơi Cẩm Nhung gặp gỡ mối tình oan khiên với tay trung tá công binh Trần Ngọc Thức lớn hơn cả chục tuổi, khiến đời cô chìm vào tăm tối.
Nói về Cẩm Nhung, tài-pán Marie Sang, người quản lí vũ trường có tiếng hồi đó kể lại: “Tội nghiệp con Cẩm Nhung lắm. Nó là đứa nhỏ nhất trong đám đệ tử của em ngày ấy. Nhưng nó rất biết điều, sống có tình và tha thiết với một mong ước là ngày nào đó sẽ rời ánh đèn mờ vũ trường để kiếm một tấm chồng giản đơn. Tiếp đó, nó sẽ sống như bà mẹ hiền hậu của mình…”. Tuy nhiên, ước mơ giản dị ấy chưa kịp thành hình thì cuộc đời Cẩm Nhung rẽ sang một hướng khác đầy bi kịch sau ngày 17 tháng 7 năm 1963 định mệnh.
Nở một cuộc tình, tan một đời hoa
Nói về mối tình của trung tá Thức và Cẩm Nhung. Thời ấy, “Thức công binh” (biệt danh của trung tá Trần Ngọc Thức) nổi lên như cồn trong giới ăn chơi ở Sài Gòn. Trung tá Thức tuổi ngoài 30, đam mê nhảy đầm. Từ trước đến nay chưa có vũ nữ nào là mối ruột của ông nhưng chỉ gặp Cẩm Nhung lần đầu, ông đã say mê như điếu đổ.
Từ đêm đó, mỗi lần ông đến Kim Sơn là có Cẩm Nhung kề cận. Sau đó họ có những cuộc hẹn hò, những lần đi chơi với nhau. Cách đối xử của ông làm cho Cẩm Nhung cảm phục và mặc dù thừa biết ông đã có gia đình cô vẫn sẵn lòng làm người vợ ngoài giá thú.
Vợ trung tá Trần Ngọc Thức có biệt danh là Năm Rađô đã vài lần đón đường hăm dọa, thậm chí tát tai dằn mặt vũ nữ Cẩm Nhung, nhưng bấy nhiêu đó không đủ làm cho cô gái trẻ rời xa chồng bà. Trong cơn ghen mù quáng, bà đã vạch kế hoạch tỉ mỉ tiêu diệt tình địch. Hai tên giang hồ có cỡ được bà Năm Rađô thuê với giá 2 lượng vàng để làm cái việc hủy diệt nhan sắc của cô vũ nữ.
Khoảng 22 giờ đêm ngày 17.7.1963, vũ nữ Cẩm Nhung rời khỏi nhà để đến vũ trường Kim Sơn. Khi Cẩm Nhung còn cách chiếc taxi khoảng 10 mét, bất ngờ từ bên kia đường một gã đàn ông băng nhanh qua đường, tiến về phía cô. Cẩm Nhung chưa kịp phản ứng thì gã đàn ông đã tạt mạnh ca axít vào mặt cô.
Cẩm Nhung chỉ kịp kêu lên: “Chết tôi rồi, cứu tôi với” rồi ngã gục trên đường. Người đàn ông sau khi tạt axít đã băng qua bên kia đường, leo lên xe taxi mở cửa chờ sẵn, trên ấy có bà Năm Rađô.
Nghe tiếng kêu cứu, một số người đi đường đã chạy đến, họ thấy Cẩm Nhung nằm quằn quại dưới đường, mùi axít xông lên hôi nồng. Một người đàn ông đã ôm nạn nhân lên xe taxi, chở đến Bệnh viện Đô Thành (Bệnh viện Sài Gòn ngày nay). Do Bệnh viện Đô Thành không có khả năng trị bỏng, nhất là bỏng axít, nạn nhân sau đó đã được chuyển đến Bệnh viện Đồn Đất (Bệnh viện Nhi Đồng 2 ngày nay).
Những người bạn vũ nữ của Cẩm Nhung đến thăm, thấy cảnh sát hại dã man, đã hùn tiền lại mời luật sư bảo vệ cho Cẩm Nhung, đưa vụ việc ra pháp luật. Thế nhưng, thời ấy thế lực của “Thức công binh” và bà Năm Rađô rất mạnh ở Sài Gòn, nên tưởng như không ai làm được gì họ. Vụ việc đến tai bà Trần Lệ Xuân, vợ của Ngô Đình Nhu. Đích thân bà Trần Lệ Xuân cũng đã đến thăm và đưa Cẩm Nhung sang nước ngoài chữa trị. Nhưng do vết thương quá nặng nên các bác sĩ ở đây cũng không thể giúp cô.
3 tháng sau ngày xảy ra vụ việc, một phiên tòa được mở công khai để xử nhưng người gây ra thảm cảnh cho vũ nữ Cẩm Nhung. Kẻ chủ mưu là bà Nguyệt và tên tạt axit thuê phải nhận bản án 20 năm tù cho mỗi người. Kẻ đồng lõa nhận án 15 năm.
Tuy nhiên, vụ án sau đó bị đình lại rồi rơi vào quên lãng, bà Trần Lệ Xuân phải lưu vong ở nước ngoài, lời hứa bao bọc Cẩm Nhung đến suốt đời của bà Xuân cũng gác lại. Gia đình trung tá Thức đổ vỡ. Ông tiếp tục sống một cách khép kín. Vợ ông, bà Nguyệt vào chùa để sống hết những ngày còn lại.
Mất chỗ bấu víu, hận đời hận người, Cẩm Nhung chán nản lao vào đập phá, nghiện ngập, hút thuốc, uống rượu… Sau khi tiêu tán hết tài sản và hai người thân nhất qua đời, năm 1969, Cẩm Nhung phóng tấm ảnh có cô và trung tá Thức mang trước ngực lê la khắp các đường phố Sài Gòn để khất thực.
Lần đầu tiên – trước tết năm 1969, cô đến khu vực chợ Bến Thành. Ngồi bên vệ đường Lê Lợi với chiếc lon phía trước và tấm ảnh trên ngực, Cẩm Nhung bắt đầu chuỗi ngày ăn xin. Người Sài Gòn hay tin kéo nhau đến xem và giúp cô được khá nhiều.
Cẩm Nhung lê bước hành nghề khắp nhiều tuyến đường ở Sài Gòn sau đó về bến phà Mỹ Thuận ở miền Tây. Bị đưa vào trung tâm nuôi người tàn tật nhưng cô trốn ra tiếp tục ăn xin và mất tăm một thời gian sau đó.
Người đời bàn luận rằng có lẽ bà đã bệnh chết hoặc đã quyên sinh để chấm dứt kiếp hồng nhan bạc phận của mình. Mãi sau này người ta mới phát hiện bà vẫn còn sống, vừa bán vé số vừa ăn xin quanh các ngôi chùa ở thị xã Hà Tiên, mà thường nhất là ở chùa Tam Bảo.
Đúng 50 năm sau vụ đánh ghen, vào đầu năm 2013, Cẩm Nhung qua đời tại một xóm trọ nghèo ở thị xã Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang), nơi những người ăn xin, bán vé số, bốc vác tứ xứ đến thuê ở trọ. Cô được những người đồng cảnh ngộ lo cho một quan tài loại rẻ tiền, rồi đưa ra nghĩa địa… kết thúc cuộc đời đầy hào quang nhưng thấm đẫm nước mắt của cô vũ nữ lừng danh nửa thế kỷ trước.
Một kiếp phù hoa
Đau khổ, buồn chán đến tuyệt vọng, vũ nữ Cẩm Nhung đã “trả thù đời” bằng cách đập phá, uống rượu, hút thuốc… Ngày trước, khi Cẩm Nhung còn ở trên đỉnh tham vọng, người đàn ông nào được dìu cô bước ra sàn nhảy nhã là diễm phúc lớn. Còn những kẻ được làm người tình của cô bao giờ cũng phải trải hàng núi tiền dưới chân cô. Bây giờ, để “trả thù đời”, Cẩm Nhung sẵn sàng ngã vào lòng bất cứ người đàn ông nào, không cần tiền bạc hay điều kiện gì.
Thế nhưng, với khuôn mặt cháy sém, những vết thẹo lồi lõm như ác quỷ, cặp mắt mờ đục lồi ra ngoài như mắt ếch, hiếm người đàn ông nào đủ can đảm làm tình nhân của cô. Chán chường, tức giận, Cẩm Nhung càng lặn ngụp trong rượu chè be bét. Người mẹ khốn khổ của Cẩm Nhung vì buồn phiền mà sinh bệnh, rồi qua đời cuối năm 1964, chỉ hơn một năm sau ngày đứa con gái bất hạnh của bà bị nạn. Càng thêm đau khổ, Cẩm Nhung càng lao sâu vào cuộc nghiện ngập cho quên đời.
Cô ngày một thiêu đốt hết gia sản kếch sù bao nhiêu năm vắt kiệt mồ hôi trong các vũ trường và cặp bồ với hàng tá nhân tình là sĩ quan cao cấp của nền Đệ nhất Cộng hòa và các đại gia. Bao nhiêu món đồ quý giá của cô cứ lần lượt ra đi, ban đầu là chiếc xe máy loại mới nhập cảng của Nhật Bản, sau đến các loại nữ trang, hột xoàn, vòng vàng…
Bà vú Sọ là người gần gũi, an ủi, khuyên can cô nhiều nhất, nhưng mọi lời an ủi, động viên đối với cô đều không còn giá trị. Cuối cùng, căn nhà trị giá gần 200 lượng vàng, Cẩm Nhung phải bán đi để có tiền đập phá. Cô và bà vú Sọ đến thuê nhà ở khu Cô Bắc, cách không xa nhà của vợ chồng bà “Năm Ra-đô”. Số tiền bán nhà rồi cũng cạn dần. Ngày cô không còn đủ tiền để trả tiền thuê nhà cũng là ngày bà vú Sọ trung thành đổ bệnh nặng, không tiền chạy chữa, nên đã qua đời.
Còn lại một mình trên đời, không nơi nương tựa, không người thân, không nhà cửa, không tài sản, cô vũ nữ lừng danh một thời chỉ còn con đường đi ăn xin.
Lần đầu tiên, người dân Sài Gòn thấy vũ nữ Cẩm Nhung đi ăn xin trước chợ Bến Thành vào khoảng trước Tết năm 1969. Cô ngồi bên vệ đường Lê Lợi, khăn che kín mặt mày, trên ngực đeo bức ảnh cô chụp chung với trung tá Trần Ngọc Thức, trước mặt là vỏ lon hộp sữa Ghi-gô cô chìa ra xin lòng thương hại của người đi đường.
Người Sài Gòn nghe tin đã kéo tới xem Cẩm Nhung đi ăn xin, đông đúc như đi xem cải lương. Ngoài tấm hình đeo trên ngực, người ta còn nhận ra Cẩm Nhung ở đôi bàn tay mịn màng, không chút tì vết và đôi bàn chân gót son thon thả. Ban đầu, người Sài Gòn cho tiền cô thật nhiều. Có tiền, Cẩm Nhung tiếp tục nghiện ngập.
Càng về sau, người Sài Gòn càng bớt cảm động về chuyện ăn xin của cô vũ nữ nên càng ít cho tiền. Người dân Sài Gòn khu vực quận 1 lúc đó đã không khỏi bùi ngùi khi thấy Cẩm Nhung mù lòa cầm gậy dò đường trên đại lộ Lê Lợi, con đường Tự Do, trên những lối đi một thời in dấu chân cô vũ nữ Cẩm Nhung từ nhà tới vũ trường Kim Sơn. Sau đó, Cẩm Nhung phải rời khỏi khu vực chợ Bến Thành, lần mò đến chợ Bình Tây, chợ Bà Chiểu, và cuối cùng là ngã tư Trần Quốc Thảo – Lý Chính Thắng (quận3), trước khi cô âm thầm rời Sài Gòn hoa lệ để về miền Tây xa xôi ăn xin trên bến phà Mỹ Thuận.
Hình ảnh của Cẩm Nhung một thời được đem ví với chuyện “hồng nhan bạc phận”, cho một kiếp phù hoa sáng nở, tối tàn. Một kiếp người ngắn ngủi trôi qua nhưng có rất nhiều điều đáng để con người ta suy ngẫm, quá khứ vang bóng đã tạm gác lại cùng sự nuối tiếc một thời vừa kiêu hãnh mà cũng không kém truân chuyên. Trên ngực bà không còn bức chân dung với người tình sĩ quan năm xưa nữa. Sau nhiều năm bôn ba khắp các tỉnh miền Tây Nam bộ, cuối cùng, bà đã ẩn mình sống quãng thời gian cuối đời nơi vùng đất tâm linh cuối trời Nam, dưới mái chùa Tam Bảo.
Những năm tháng Cẩm Nhung lang thang trên khắp nẻo Sài Gòn sau khi bị nạn, cũng là lúc trên sân khấu ca nhạc của Sài Gòn thịnh hành bài hát “Bài ca cho người kỹ nữ” của hai tác giả Nhật Ngân – Duy Trung. Không biết các tác giả viết bài hát này để tặng cho ai khác hay vì xót thương số phận của Cẩm Nhung mà lời bài hát như nói về cuộc đời của cô vữ nữ bất hạnh này. Người ta kể rằng, mỗi khi đang đi ăn xin trên đường, tình cờ nghe bài hát “Bài ca cho người kỹ nữ” vang lên, Cẩm Nhung luôn ôm mặt khóc, đứng tựa vào đâu đó thật lâu rồi mới dò gậy đi ăn xin tiếp.
Bài hát có đoạn:
“…Ta tiếc cho em trong cuộc đời làm người
Ta xót xa thay em là một cánh hoa rơi
Loài người vô tình giẫm nát thân em
Loài người vô tình giày xéo thân em
Loài người vô tình giết chết đời em…”