Các tàu hộ vệ “bí ẩn” của Hải quân Nga sắp được trang bị là loại gì?
Chính phủ Nga không vội chia sẻ về kế hoạch làm thế nào để tăng cường sự hiện diện của Hạm đội hải quân ở khu vực xa bờ.
Tư lệnh Hải quân Nga Vladimir Korolev trong bức điện chúc mừng các thuỷ thủ đã tuyên bố về việc Nga đang triển khai đóng hàng loạt các tàu chi ến xa bờ thế hệ mới.
Theo lời của ông, Hạm đội hải quân là một trong những loại lực lượng vũ trang có hàm lượng khoa học cao nhất, và hiện nay đang “ở trong giai đoạn được tích cực trang bị v ũ kh í”.
Tàu hải quân Nga khai hỏa tê n lử a Kalibr tấ n cô ng các mục tiêu của khủ ng b ố ở Syria.
Ra biển, chứ không phải đại dương
Theo phân khúc chung (nhưng ở Nga, việc phân khúc này bị giữ bí mật), khu vực xa bờ bắt đầu từ 500 hải lý (800km). Không ít phương tiện truyền thông Nga coi khu vực xa bờ và khu vực đại dương, mà khoảng cách vượt 1.000 hải lý (1.800km) là ngang nhau.
Sự hiện diện trên đại dương xác định bởi khả năng của một quốc gia giương cờ trên khu vực xa bờ và đại dương.
Khu vực đại dương chỉ có các tàu ngầm nguyên tử và tàu chi ến hạng một (khu trục hạm, tuần dương hạm, tàu đổ bộ đa năng/mang trực thăng, tàu sân bay) “lảng vảng” mà, thông thường, được trang bị lò phản ứng h ạt nh ân.
Hiện nay trên thể giới chỉ tồn tại duy nhất một hạm đội đại dương thực sự – đó là Hải quân Mỹ.
Hải quân Mỹ phô diễn sức mạnh.
Trong thành phần của Hải quân Mỹ có 11 tàu sân bay, hơn 60 khu trục hạm lớp Arleigh Burke, hai khu trực hạm Zumwalt, trên 20 tuần dương hạm lớp Ticonderoga và 9 tàu đổ bộ đa năng lớp America và Wasp.
Sự dẫn đầu tuyệt đối của Mỹ được giải thích bằng việc cần thiết phải tăng cường lực lượng tại chi ến trư ờng ngoài khơi xa. Từ thời Thế chi ến thứ hai, Hạm đội hải quân Mỹ là lực lượng tích cực tham gia vào tất cả các cuộc xu ng đ ột vũ trang, nơi mà có sự hiện diện của Mỹ.
Sau khi Liên Xô tan rã, Washington vẫn chưa tìm được đối thủ cạnh tranh xứng tầm hoặc đồng minh với những năng lực tương đương.
Khu vực xa bờ – đó là nơi có nhiều các cường quốc còn lại như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Anh, Pháp và Nga.
Phải thừa nhận một cách nối tiếc rằng, Nga yếu thế rõ nét so với hải quân của những quốc gia nêu trên, nếu không tính đến tiềm lực của hạm đội tàu ngầm nguyên tử mà vì đặc thù (kiềm toả chi ến lược Mỹ) chủ yếu chỉ tham gia tại khu vực đại dương.
Vào thời điểm hiện nay, tổng số lượng tàu chi ến xa bờ của Hải quân Nga ước vào khoảng 50 chiếc, thậm chí một phần đang trong quá trình tu sửa hoặc nâng cấp. Trong 30 năm qua, Nga không sản xuất được một chiếc tàu ch iến khu vực đại dương nào.
Tất cả những tàu chi ến lớn của Nga (tải trọng trên 5000 tấn) thuộc thành phần hạm đội hải quân Nga – đó là các tàu hộ vệ hoặc tàu tuần tra khu vực xa bờ.
Khinh hạm tê n lử a đề án 22350 Đô đốc Gorshkov mới được bàn giao cho Hải quân Nga năm 2018.
Những chiếc tàu dang dở
Cho tới ngày hôm nay, các xưởng đóng tàu của Nga mới chỉ hoàn thành được 4 chiếc khinh hạm tê n lử a. Đó là 3 chiếc thuộc đề án 11356P/M Burevestnik gồm “Đô đốc Grigorovich” (năm 2016), “Đô đốc Essen” (2016), “Đô đốc Makarov” (2017) và một chiếc tàu khinh hạm tê n lử a đề án 22350 “Đô đốc Hạm đội Liên Xô Gorshkov” (2018).
Việc triển khai cả hai đề án gặp phải những vấn đề khá nghiêm trọng. Một trong những lý do – đó là việc chấm dứt hợp tác kỹ thuật-quân sự với Ukraine. Theo chỉ thị của chính quyền Kiev, nhà máy đặt ở Nikolaev từ chối cung cấp các động cơ tuốc bin khí cho Moscow.
Điều này đã khiến thời hạn bàn giao các tàu chi ến phải lùi lại vài năm. Việc thay thế các động cơ nhập khẩu trong những năm gần đây do công ty “Saturn” của Nga chịu trách nhiệm.
Ngoài ra, có không ít khó khăn xuất hiện trong quá trình nghiên cứu chế tạo các hệ thống v ũ kh í mới. Cụ thể, tập đoàn Almaz-Antey (Nga) chậm tiến độ chế tạo tổ hợp tê n lử a phòng không phóng theo phương thẳng đứng Poliment-Redut.
Những lần phòng thử đầu tiên từ tổ hợp này đã thực hiện vào năm 2012 và thất bại. Cần phải bỏ ra hơn 6 năm nữa để khắc phục các yếu điểm này. Hôm 11/2/2019, ông Korolev đã thông báo về việc kết thúc quá trình thử nghiệm cấp quốc gia.
Trong thông điệp gửi Hội đồng Liên bang, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã thông báo về việc “trong thời gian tới 5 chiếc tàu chi ến mặt nước xa bờ sẽ triển khai đóng mới, thêm 16 chiếc thuộc lớp này sẽ được bàn giao cho Hạm đội hải quân từ nay đến năm 2027”.
Bộ Quốc phòng Nga không cung cấp bất cứ lời giải thích nào liên quan tới tuyên bố này của người đứng đầu Nhà nước.
Căn cứ vào những kế hoạch hiện nay, Hạm đội hải quân chỉ có thể tiếp nhận một vài tàu hộ vệ. Theo thông tin mở, đến năm 2027 sẽ có 5 chiếc tàu đề án 22350 (2 chiếc đang được đóng, 2 chiếc đã ký hợp đồng) được bàn giao cho hạm đội.
Thêm 3 chiếc thuộc đề án 11356P/M đã được hạ thuỷ, nhiều khả năng, sẽ được chuyển giao cho Ấn Độ. Thoả thuận giữa hai nước đã được thống nhất vào tháng 11/2018.
Khinh hạm tê n lử a đề án 11356P/M.
Đến năm 2027, Nga đảm bảo sẽ bàn giao 10 chiếc tàu (5 chiếc tàu hộ vệ đề án 22350 cộng thêm 5 chiếc mà đã được ông Putin đề cập tới). Tuy nhiên, căn cứ từ tuyên bố của tổng thống cho thấy, tổng cộng sẽ có 21 tàu chi ến xa bờ sẽ được bàn giao cho Hạm đội hải quân. Giải thích thế nào cho sự mất cân đối này?
Hoàn toàn có khả năng đó là đề án các tàu hộ vệ xa bờ mới mà ông Korolev đã chia sẽ mới đây. Chính những tàu chi ến này sẽ được triển khai đóng mới trong những năm tới. Nếu đúng như vậy, thì quyết định này có vẻ không đồng nhất.
Một mặt, trong thành phần Hạm đội hải quân sẽ có tận 3 loại tàu hộ vệ xa bờ, có nghĩa là số lượng tàu chi ến của hạm đội hải quân không lớn lắm của Nga tiếp tục được nhân lên khi tăng tính đa dạng của khí tài và kéo theo – chi phí cực lớn để duy trì chúng.
Mặt khác, các tàu chi ến mới sẽ có thể là phiên bản cải tiến của đề án 22350 hoặc Burevestnik. Trong trường hợp này, hạm đội có thể bảo đảm được tỷ lệ đồng nhất cần thiết.
Tạm thời không thể phỏng đoán được các tàu chi ến xa bờ còn lại mà ông Putin từng nói sẽ là những loại nào.
Trong thông điệp gửi Hội đồng Liên bang, có thể đó là những tàu chi ến loại khác, lấy ví dụ tàu đổ bộ lớp Priboy hoặc tàu khu trục Lider (nhưng những tàu chi ến này thuộc khu vực đại dương), hoặc về các tàu chi ến hạng nhất được nâng cấp.
Trả lời công chúng
Một trong những yếu điểm trong chính sách thông tin của Nhà nước Nga đó là tính công chúng không cao, mong muốn rõ nét của chính quyền giữ kín các kế hoạch trước người dân, giải thích ý nghĩa của các quyết sách mà được triển khai bằng tiền ngân sách, có nghĩa là tiền của người dân nộp thuế.
Lấy ví dụ, ở Mỹ thường xuyên công bố các báo cáo với đánh giá chi tiết về khả năng chi ến đấ u của Các lực lượng vũ trang, phân tích những thách thức và mối đe doạ tới an ninh quốc gia. Trong những tài liệu, này có thể tìm thấy thông tin về việc tiền của người dân sẽ được sử dụng vào đâu.
Tất nhiên, người Mỹ không hé lộ tất cả những dự liệu, nhưng các tài liệu mà được công khai giúp người dân có thể đưa ra một bản chi phí sơ bộ.
Ở Nga, các chuyên gia và phóng viên không thể tiếp cận lượng lớn thông tin. Người dân thường xuyên không thể tiếp cận được những thông tin mà không đáng gọi là bí mật (cụ thể như phân khúc các tàu chi ến chẳng hạn).
Sự kín đáo này của chính quyền sẽ dẫn tới điều mà chúng ta nhìn thấy trong thực tiễn, lấy ví dụ thông điệp gửi Hội đồng Liên bang và tuyên bố của Tư lệnh Hải quân về các tàu chiế n xa bờ thế hệ mới.
Những tuyên bố của ông Putin về 21 chiếc tàu chi ến và lời của ông Korolev về “các tàu hộ vệ thế hệ mới” cần tối thiểu một sự giải thích, nhưng chính họ, cũng như những quan chức khác của Nga, dường như, không vội vàng làm điều này.