Chuyện kỳ bí ở núi Phật Tích: Ông sư Trung Quốc ngồi bất hoại 400 năm
Đã 400 năm, kể từ ngày vị thiền sư Trung Quốc viên tịch ở Bắc Ninh, những bí mật tu hành của ngài vẫn còn vô vàn ẩn số…
Kỳ 3 (Kỳ cuối): Bí mật thiền sư người Trung Quốc trong chùa Phật Tích
Đứng trên núi Tiêu Sơn (nơi có ngôi chùa Tiêu và nhục thân thiền sư Như Trí, mà bài trước đã nêu) phóng tầm mắt qua những làng mạc, thấy núi Tiên như một tảng đá của thiên đàng đánh rơi.
Xung quanh ngọi núi thuộc huyện Tiên Du (Bắc Ninh) này, có rất nhiều huyền thoại liên quan đến tiên giới, trong đó có chuyện Từ Thức gặp tiên, rồi chuyện chàng tiều phu vào rừng đốn củi Vương Chất gặp hai ông tiên chơi cờ trên núi.
Chùa Phật Tích trên núi Tiên (còn gọi là núi Lạn Kha, núi Phật Tích) xây dựng vào thời Lý, năm Thái Bình thứ 4 (1057) với rất nhiều tòa ngang, dãy dọc.
Tôi chợt rùng mình bởi vẻ đẹp huyền ảo đầy chất thiền của bức tượng Phật A-di-đà khổng lồ được tạc bằng đá màu xanh ngọc nguyên khối. Theo sử liệu, năm 1066, vua Lý Thánh Tông đã cho xây dựng một ngôi tháp cao đến nỗi đứng ở kinh thành Thăng Long vẫn nhìn thấy. Đến đời Trần, tháp đổ, lộ ra pho tượng tuyệt đẹp này. Khi ấy, toàn bộ pho tượng được dát vàng óng ánh.
Du khách đứng lại dưới những tán cây rợp bóng, ngắm 10 pho tượng thú gồm sư tử, voi, tê giác, trâu, ngựa mỗi loại hai con, đã gần ngàn năm tuổi. Những pho tượng đều được tạc bằng đá xanh nguyên khối.
Đứng trên đỉnh non Tiên, nhìn ra tứ phía, chỉ biết mượn mấy câu thơ của tác gia Nguyễn Trãi khi ông về thăm và vịnh cảnh chùa: “Bóng xế thuyền con buộc/ Vội lên lễ Phật đài/ Mây về giường sãi lạnh/ Hoa rụng suối hương trôi/ Chiều tối vượn kêu rộn/ Núi quang, trúc bóng dài/ Ở trong dường có ý/ Muốn nói bỗng quên rồi”.
Lạc giữa rừng tháp đá và gạch nung gồm 32 ngôi, phần lớn được dựng từ thế kỷ 17, nơi cất giữ xá lị của các nhà sư từng trụ trì chùa, tôi chợt như nghe đâu đây tiếng mõ kêu lốc cốc đều đặn vang ra từ các am tháp.
Chỉ có những am tháp, những linh vật bằng đá khổng lồ, pho tượng Phật nặng nhiều tấn cùng một số cổ vật khác đào được từ lòng đất trong những lần khai quật là những gì ít ỏi còn lại của một thời vàng son. Toàn bộ ngôi chùa đã bị ngọn lửa thiêu rụi vào năm 1947.
Đại đức Thích Đức Thiện là người trụ trì ngôi chùa này sau nửa thế kỷ vắng tiếng kinh kệ. Đại đức về trụ trì từ năm 2002 sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Phật học tại Ấn Độ.
Sinh ra tại Bắc Ninh, cái nôi của văn hóa Phật giáo, lại dành cả đời nghiên cứu Phật giáo, nên mọi thông tin về ngôi chùa cổ này Đại đức đều nắm rất rõ.
Lạc giữa “rừng mộ tháp” nghe chuyện thiền sư Chuyết Chuyết, mà thấy vẻ đẹp giản dị, song vô cùng bí ẩn và huyền diệu của Phật pháp.
Thiền sư Chuyết Chuyết vẫn còn lý lịch rõ ràng, dù ông lạc sang đất này đã 400 năm. Ông sinh năm 1590, tại Tiệm Sơn (huyện Hải Trừng, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc), nay thuộc thành phố Dương Châu. Sư mang họ Lý, tên Thiên Tộ.
Truyền rằng, người mẹ nằm mộng thấy rốn mình mọc lên một bông sen, thời gian sau tự dưng có thai. Thai nhi kỳ lạ này nằm trong bụng mẹ tròn 3 năm mới ra đời.
Tuổi thơ của Lý Thiên Tộ cực kỳ đau khổ. Mẹ mất khi mới 5 tuổi, bé Thiên Tộ phải ở với chú. Dù còn nhỏ, cha mẹ mất sớm, cuộc sống nghèo khổ, song Thiên Tộ vẫn thông minh xuất chúng, học thông cả ngũ kinh tứ thư.
Tuy nhiên, người chú không nuôi nổi, nên năm Thiên Tộ 15 tuổi, ông gửi vào chùa Tiệm Sơn. Khi được chú dắt đến chùa, trưởng lão Tiệm Sơn hỏi: “Ngươi định tạo sự nghiệp gì mà tìm về cửa Phật?”, Thiên Tộ thưa: “Giúp vua cứu dân”.
Sau khi luận về công danh, trưởng lão Tiệm Sơn thấy cậu bé còn ham danh lợi, song rất thông minh, nên đồng ý cho Thiên Tộ xuất gia, rồi giữ lại chùa để truyền dạy cho tỉnh ngộ. Thiên Tộ có pháp danh Viên Văn.
Biết kiến thức Phật giáo của mình không đủ để dạy Viên Văn, hòa thượng chùa Tiệm Sơn đã gửi sư cho hòa thượng Tăng Đà Đà ở Nam Sơn.
Sau khi luận về Phật pháp, hòa thượng Đà Đà nói với tăng ni trong chùa: “Ngày khác ta sẽ nhường chỗ cho kẻ này, y sẽ bước khỏi đầu sào trăm trượng”. Biết rằng sư Viên Văn là một người xuất chúng, nên truyền hết yếu chỉ tâm tông cho sư.
Chỉ một thời gian ngắn theo hòa thượng Đà Đà, sư Viên Văn đã đắc pháp, đi giáo hóa mười phương. Danh tiếng của ngài vang danh khắp thiên hạ, khiến học giả đương thời đều kính trọng.
Năm 18 tuổi, sư Viên Văn sang Campuchia hoằng pháp ròng rã 16 năm, được quốc vương xứ này quan tâm đặc biệt.
Năm 1623, ngài sang vùng Quảng Nam thuyết pháp, nhận thiền thư Minh Hành làm đệ tử.
Đến năm 1933, ngài cùng đệ tử khất thực ra đến kinh thành Thăng Long. Sau khi yết kiến vua Lê và chúa Trịnh, ngài được mời về trụ trì chùa Khán Sơn ở Thăng Long để giảng dạy Phật pháp. Từ đó, ngài được gọi là Chuyết Công hoặc Chuyết Chuyết.
Sau đó khoảng một năm, hòa thượng Chuyết Chuyết đi về chùa Phật Tích, trụ trì tại ngôi chùa cổ này. Tuy nhiên, sau đó, chúa Trịnh Tráng cho trùng tu chùa Bút Tháp, nên lại mời sư về trụ trì, giảng đạo ở ngôi chùa này cho đến khi viên tịch.
Cũng như những thiền sư đã tu thành chính quả, biết mình sắp rời xa nhân thế, thiền sư Chuyết Chuyết gọi đệ tử đến bên dặn dò bằng mấy lời kệ: “Tre gầy thông vót nước rơi thơm/ Gió thoảng trăng non mát rờn rờn/ Nguyên Tây ai ở người nào biết/ Mỗi chiều chuông nổi đuổi hoàng hôn”. Lời kệ này được chép trong sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn.
Đọc xong lời kệ, các đệ tử thút thít khóc, thiền sư liền bảo: “Nếu ai động tâm khóc lóc thì không phải đệ tử của ta”. Nghe lời, các đệ tử nín thinh, ngồi gõ mõ tụng kinh. Tiếng kinh kệ vang lên đều đều. Thiền sư Chuyết Chuyết lặng lẽ bước vào tháp Báo Nghiêm, đệ tử bịt cửa tháp lại. Không gian yên lặng đến kỳ lạ, con chim không hót, con khỉ chẳng thấy kêu.
Ngày rằm tháng bảy năm Giáp Thân (1644), tiếng mõ ngừng vang từ tháp. Thiền sư Chuyết Chuyết viên tịch khi tròn 54 tuổi. Điều kỳ lạ là khi thiền sư mất, cả tháng trời khắp chùa có mùi hương thơm rất lạ. Đệ tử chân truyền là thiền sư Minh Hành đã dùng kỹ thuật tượng táng phổ biến thời bấy giờ để bó cốt thầy, rồi đặt ngài vào tháp Báo Nghiêm.
Một thời gian sau, thiền sư Minh Hành đưa nhục thân thiền sư Chuyết Công vào một ngôi chùa tận trong Thanh Hóa để tránh chiến tranh, binh đao. Rồi không rõ nguyên nhân gì, các đệ tử lại đưa về nhà thờ tổ của chùa Phật Tích, sau đó đưa vào tháp Báo Nghiêm.
Lịch sử của Phật giáo ghi rõ thông tin về cuộc đời tu hành và nhục thân của thiền sư Chuyết Chuyết như vậy.
Tháng 8 năm 1989 tượng nhục thân thiền sư Chuyết Chuyết được tìm thấy trên rừng mộ tháp, nhưng xương cốt còn tới 133 mảnh. Đống chất bồi làm tượng táng cũng cơ bản giống với chất bồi làm những pho tượng táng khác. Tuy nhiên, theo ý kiến của TS. Nguyễn Lân Cường, cách thức làm tượng táng thiền sư Chuyết Chuyết thì hoàn toàn khác.
Qua việc tìm thấy 7 đoạn dây đồng, TS. Nguyễn Lân Cường kết luận rằng, người ta đã không quét lớp bồi trực tiếp lên thân thể thiền sư Chuyết Chuyết, mà dùng dây đồng dựng khung xương rồi mới quét lớp bồi(?!).
TS. Nguyễn Lân Cường đã cùng họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân, nhà điêu khắc Bùi Đình Quang, họa sĩ Nguyễn Đình Hiển bỏ nhiều tháng trời nghiên cứu, phục dựng thành công pho tượng táng thiền sư Chuyết Chuyết. Là nhà khoa học đầu tiên của Việt Nam được theo học phương pháp phục chế lại mặt theo xương sọ của giáo sư M.M. Gheraximov, nên TS. Nguyễn Lân Cường dễ dàng phục dựng lại khuôn mặt của thiền sư Chuyết Chuyết giống hơn cả pho tượng táng mà các nghệ nhân đã dựng cách nay mấy trăm năm.
Điều đặc biệt, TS. Nguyễn Lân Cường đã không cần dùng những sợi đồng để dựng khung xương như cách làm của người xưa với di hài của thiền sư Chuyết Chuyết. Ông cùng nhóm phục dựng đã gắn xương vào đúng vị trí giải phẫu trên chất liệu bồi, rồi quét tiếp lớp bồi nữa như táng tượng bình thường.
Ngày hoàn thành pho tượng táng là ngày đặc biệt đáng nhớ với TS. Nguyễn Lân Cường và nhóm phục dựng. Hàng ngàn người đã đổ về chùa Phật Tích chen nhau chiêm ngưỡng nhục thân vị thiền sư đầy huyền thoại này.
Bí mật phía sau những pho tượng táng các thiền sư là gì? TS. Nguyễn Lân Cường đã trả lời khá đầy đủ trong công trình nghiên cứu để đời của ông: “Bí mật phía sau nhục thân của các vị thiền sư”. Tuy nhiên, những điều mà TS. Nguyễn Lân Cường trả lời chỉ là những lý giải mang tính chất khoa học thuần túy. TS. Nguyễn Lân Cường hiểu rằng, phía sau những nhục thân này là cả một thế giới bí ẩn cần tiếp tục nghiên cứu.