Người Việt sống ở Canada 30 năm kể chuyện trồng cỏ và làm nail bất chấp của người Việt

Hai giờ sáng, giờ Vancouver, công việc như vô tận. Tôi mệt quá, ngồi xuống nghỉ ít phút. Tôi ở Canada trên 30 năm. Tôi chưa thấy một người Trung Quốc nào đi “Trồng cỏ” hay làm “Nails”.

Để tôi kể bạn nghe. Trước và sau năm 2000, cộng đồng người Việt ở Canada (chỉ Canada thôi, không thấy ở Mỹ) có phong trào “Trồng cỏ” (tŕồńg ćầń śá, bồ đà).
Tôi ít chữ quá, không đủ ngôn từ mô tả phong trào này sâu rộng trong cộng đồng người Việt ở Canada như thế nào.
Nhà nhà trồng, người người trồng cỏ. Mở nhà hàng tầng trên, tầng hầm trồng cỏ. Giả vờ giữ trẻ tầng trên, tầng dưới trồng cỏ. Mua cả ba căn nhà cạnh nhau, căn giữa trồng cỏ. Bác sỹ, dược sỹ, người giàu bỏ tiền cho bệnh nhân hoặc người quen trồng cỏ thu lời.

Làm nail khi du học, tôi được mời thực tập công ty tốt

Tờ báo lớn và uy tín nhất Canada, The Globe and Mail, 25/3/2000 mô tả ńhữńg vụ đấú ś,,úńg kéő dàí đổ m,,áú và áń m..ạńg trong cộng đồng người Việt. Chỉ riêng ở thành phố Vancouver, cảnh sát ước tính có tới 7000 cơ sở của người Việt, hơn 80% trong số này dưới sự điều hành của các băng đảng người Việt.
Để phục vụ cho nhu cầu này, hàng loạt các dịch vụ ăn theo. Bán đất trồng, phân bón, hormone kích thích, thùng, chậu, bóng đèn cao áp, ống tưới nước, giống, hạt v.v.
Những tờ báo tiếng Việt địa phương, quảng cáo, công khai: Có các “chuyên gia” giàu kinh nghiệm, tận tình kín đáo, hướng dẫn cho khách cách gieo hạt, trồng tỉa, tưới, chiết cành, chăm bón, thu hoạch, bảo quản và phần phối ra thị trường. Các “chuyên gia” còn hướng dẫn cách câu điện lậu, mắc ống nước chui, cách ngụy trang, cách đánh lạc hướng, cách đối phó khi bị phát hiện, cách đánh l..ừa cảnh sá,,

Du học nghề Nail tại Canada – Thị trường việc làm đầy tiềm năng

Những người trồng cỏ đều hiểu. Hệ thống tư pháp Canada khá nhẹ tay, thậm chí nhân đạo. Tù tội nhẹ nhàng như một cuộc dạo chơi. Hơn nữa, những năm đầu, cảnh sát Canada khá lúng túng vì rào cản ngôn ngữ và văn hóa rất khác biệt. Trồng cỏ thường đi liền với nhà hàng và làm nails. Chồng trồng cỏ, vợ mở tiệm nails hoặc nhà hàng, ċhë mắt thế ġïän, rửä tïền.
Cộng đồng người Việt trên mọi miền đất Canada, từ thành phố lớn vài triệu dân cho tới những thị trấn nhỏ vài ngàn, từ Montreal tới Vancouver, từ Toronto tới Calgary, từ miền đông qua miền tây, cả những khu tự trị heo hút vùng Bắc Cực, cứ ở đâu có người Việt là ở đó có trồng cỏ, tiệm nails, nhà hàng và bán hàng hot (đồ ăɴ c..ắᴘ, ʙáɴ ԍιá ʀẻ). Thoạt đầu, nó phát triển trong nhóm người “Tàu Bắc”(người Tàu ra đi từ miền Bắc), và ngưới Bắc (Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa). Sau đó lan qua cộng đồng người Nam. Phong trào rầm rộ và, sâu rộng. Mỗi dịp tiệc tùng, cưới hỏi, sinh nhật, lễ tết là người ta ngồi bàn, tán dóc, bốt phét chuyện trồng cỏ.
Người Việt hốt bạc một thời. Tất nhiên những hệ lụy kèm theo băng đảng, thanh toán lẫn nhau. Phong trào trồng cỏ từ từ tàn lụi khi bước qua thập kỷ thứ hai của thế kỷ này. Đặc biệt, khi chính phủ của Thủ tướng Justin Trudeau thông qua đạo luật được trồng, bán, dùng công khai. Phong trào trồng cỏ trong cộng đồng người Việt chính thức khai …t,,ử. Giờ đây, không thấy ai nói về nó nữa..

Nhiều người liều mạng để sinh tồn, như vụ 39 người Việt năm ngoái sang châu Âu năm 2019. Giờ ở Canada người Việt cũng làm đủ mọi nghề để sinh sống. Chỉ cần bạn cố gắng, Canada luôn là một quốc gia đáng để cống hiến và sống tốt.