Phạm Duy: “cây đại thụ” của nền âm nhạc Việt, người bạn tri kỷ của nhạc sĩ Văn Cao
Phạm Duy được biết đến là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ và là nhà nghiên cứu âm nhạc nổi tiếng bật nhất của Việt Nam. Ông cũng được xưng tụng là người có công lớn nhất trong việc xây dựng và định hình cho Tân nhạc Việt (thời kỳ thập niên 1940 trở về sau).
Ông để lại cho đời một khối lượng sáng tác đồ sộ, đa dạng về thể loại, trong đó có nhiều bài hát đã trở nên quen thuộc trong tâm trí người Việt. Có thể kể đến một số tác phẩm như: Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà, Thuyền Viễn Xứ, Bao Giờ Biết Tương Tư… Và đặc biệt là bài Mùa Thu C.hết – bài hát ông viết tặng cho con dâu cũ – Ca sĩ Julie Quang.
Nhìn chung, ông chủ yếu viết về thể loại tình ca – tình yêu quê hương, tình yêu con người và đặc biệt là tình yêu đất nước. Nhiều người đ.ánh giá, nhạc của ông là sự kết hợp giữa những yếu tố nền tảng của âm nhạc cổ truyền Việt Nam và những kỹ thuật, cấu trúc của nhạc hàn lâm Tây phương.
Sự kết hợp này, tạo nên một phong cách riêng với nhiều tác phẩm lớn có tính đột phá, giàu ảnh hưởng đối với các nhạc sĩ thuộc nhiều thế hệ. Ông cũng được xem là người khởi xướng, định hướng nhiều trào lưu, phong cách mới mẻ cho nền tân nhạc Việt.
Phạm Duy tên đầy đủ là Phạm Duy Cẩn, ông sinh ngày 5 tháng 10 năm 1921, quê ở Phố Hàng Cót, Hà Nội. Ông xuất thân trong một gia đình tri thức, cha là nhà văn xã hội Phạm Duy Tốn, anh cả là giáo sư/ thạc sĩ chuyên ngành Pháp văn – Phạm Duy Khiêm.
Được biết, ngay từ khi còn nhỏ, ông là một cậu bé lanh lợi, tính tình hiếu động và yêu âm nhạc. Dù nhỏ t.uổi nhưng ông đã biết chơi guitar và mandolin, bên cạnh đó ông còn có cơ hội tiếp thu các bài ca Huế và tiếp cận với nền văn học Pháp qua người cha của mình.
Năm 1936, ông vào học tại trường trọng điểm – Thăng Long. Một số nhân vật lỗi lạc đã từng dạy ở đây, có thể kể đến như Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Tuyên, Phan Anh, Khuất Duy Tiến… Trong suốt một năm học tại trường, ông đã tiếp thu được nhiều cái hay cái đẹp liên quan đến nền văn chương Pháp.
Năm 1940, ông theo học hội họa tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Thế nhưng sau một thời gian theo học, ông nhận ra bản thân không phù hợp với hội họa nên cũng quyết định bỏ học từ đây.
Để mưu sinh, ông trải qua rất nhiều công việc khác nhau từ phụ gánh xiếc, thợ sửa radio, cho đến chăm sóc trang trại… ở nhiều tỉnh thành. Có lẽ cũng chính những khó khăn này đã giúp cho ông có được nhiều trải nghiệm, từ đó có thêm nhiều nguồn cảm hứng cho âm nhạc của mình.
Khoảng năm 1935 – 1940, ông dần nhận ra niềm đam mê âm nhạc của mình. Từ đó, ông tự tìm tòi học nhạc cổ điển, dần dần bắt đầu tập sáng tác – mà không qua bất kỳ trường lớp đào tạo âm nhạc nào.
Năm 1941, ông chính thức trở thành ca sĩ hát tân nhạc ở gánh hát Đức Huy – Charlot Miều. Đây là cơ hội giúp ông làm quen với nhiều tên t.uổi lớn như Lưu Trọng Lư, Lê Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông,… Đặc biệt là người bạn thân thiết nhất trong cuộc đời – nhạc sĩ Văn Cao.
Phạm Duy sở hữu một chất giọng truyền cảm đầy nội lực, và đậm chất Việt, vì thế tên t.uổi của ông nhanh chóng được khán giả trong và ngoài nước biết đến.
Năm 1942, ông cho ra đời tác phẩm đầu tay mang tên “Cô hái mơ”, phổ từ thơ Nguyễn Bính. Cuối thập niên 1940, thời điểm tham gia khán ᴄhιến, ông đã viết nhiều bài cổ vũ tinh thần yêu nước và hăng say lao động, tiêu biểu là Nương Chiều, Nhớ Người Ra Đi, Nhớ Người Thương Binh, Gánh Lúa, Quê Nghèo, Bà Mẹ Gio Linh…
Từ đầu thập niên 1950 nhạc sĩ Phạm Duy bắt đầu sáng tác mạnh mẽ, đặc biệt là khi vào đến Sài Gòn năm 1952, tiêu biểu nhất của thời kỳ này là Tình Ca, Tình Hoài Hương, Bà Mẹ Quê, Em Bé Quê, Vợ Chồng Quê, Thuyền Viễn Xứ, Ngày Trở Về, Người Về…
Năm 1953, ông qua Pháp tham gia khóa học âm nhạc suốt hai năm. Sau đó ông về Việt Nam và tiếp tục sự nghiệp âm nhạc của mình ở miền Nam. Thời gian này ông cũng tham gia viết nhạc kịch, viết nhạc cho phim…
Năm 1965, ông tham gia phong trào Du ca với một số tên t.uổi có tiếng như Nguyễn Đức Quang, Giang Châu, Ngô Mạnh Thu,… Năm 1966, ông được đài Channel 13 mời tham gia chương trình dân ca của Pete Seeger ở Hoa Kỳ.
Ngoài nhạc quê hương, tình tự dân tộc và nhạc tình ca đã nhắc đến, nhạc sĩ Phạm Duy còn sáng tác nhạc thiếu nhi, nhạc trẻ, nhạc trường ca, đạo ca, thiền ca, tâm ca… Về thể loại nhạc vàng đại chúng, ông cũng góp mặt với các bài nổi tiếng là Ngày Em Hai Mươi T.uổi, Anh Hỡi Anh Cứ Về…
Nhạc sĩ Phạm Duy cũng là một trong những nhạc sĩ phổ thơ nhiều nhất, điển hình là phổ thơ Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Tất Nhiên, Phạm Thiên Thư, Minh Đức Hoài Trinh. Ngoài ra, Phạm Duy cũng là một trong những người đầu tiên viết lời Việt cho nhạc ngoại, từ thời kỳ thập niên 1940 ông đã viết lời cho nhạc cổ điển, đến thập niên 1960-1970 thì viết lời cho nhiều bài nhạc Mỹ đương đại.
Ngoài sáng tác và biểu diễn, nhạc sĩ Phạm Duy còn có những công trình khảo cứu về âm nhạc Việt Nam có giá trị. Ông từng giữ chức giáo sư nhạc ngữ tại Trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi ký và chia làm 4 cuốn. Tác phẩm này cũng được đ.ánh giá cao về giá trị văn học lẫn tư liệu lịch sử.
Với hơn 70 năm sự nghiệp, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước, ông được coi là “cây đại thụ” của nền âm nhạc Việt Nam. Tháng 1 năm 2013, ông qua đời. Sự ra đi của ông khiến nhiều khán giả cũng như giới văn nghệ sĩ không khỏi đau thương.
Nhạc sĩ Duy Cường – con trai nhạc sĩ Phạm Duy từng chia sẻ với công chúng: “Ba tôi lúc nào cũng lạc quan. Ông bảo mình đã sống một cuộc đời đầy đủ, trọn vẹn và rất mãn nguyện. Ông còn dặn dò phải chôn ông gần mẹ tôi. Điều đó tôi sẽ thực hiện được…”.